1. Tiểu sử
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31/5/1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu thuộc xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
Lúc nhỏ ông theo học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than, quận Hoàn Kiếm cùng nhà thơ Xuân Diệu- bạn tâm giao của nhà thơ Huy Cận và cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh. Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Tháng 8/1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời, trong đó có nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng, nhà sử học Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận, vào kinh đô Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại.
Cách mạng Tháng 8 thành công (8/1945), khi mới 28 tuổi, Cù Huy Cận đã là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong những năm 1945-1946, ông là Ủy viên Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ.
Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ở cả hai thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách công tác văn hóa văn nghệ.
Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học- Nghệ thuật Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội các khóa I, II, và VII.
Tháng 6 năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội sau một thời gian lâm trọng bệnh, thọ 88 tuổi. Phần mộ được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
2. Đời tư – Gia đình
Về đời tư, Huy Cận có hai người vợ. Người vợ đầu của ông là bà Ngô Thị Xuân Như (1928-2009), em gái của nhà thơ Xuân Diệu, kết hôn năm 1951, từng công tác y tế tại Ban Kiểm tra 12 (Phủ Thủ tướng), Bác sĩ Viện Y học cổ truyền Việt Nam. Người vợ thứ là bà Trần Lệ Thu, kết hôn năm 1960, cán bộ giảng dạy Nga văn ở một trường Đại học lớn tại Hà Nội. Huy Cận và Xuân Diệu là 2 nhà thơ lớn, 2 người bạn lớn, tri kỷ. Xuân Diệu cùng sống với gia đình Huy Cận cho đến hết cuộc đời tại ngôi nhà số 24 đường Cột Cờ (đường Điện Biên Phủ), Hà Nội.
Ông có bốn người con, hai con trai và hai con gái. Con trai cả của ông là tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ (với người vợ đầu là bà Ngô Thị Xuân Như), người bị bắt năm 2011 và kết án 7 năm tù, 3 năm quản chế về tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo điều 88 Bộ luật hình sự Việt Nam.
3. Sự nghiệp sáng tác
Sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét sầu não, buồn thương. Còn sau Cách mạng tháng 8 thơ Huy Cận đã lột xác hoàn toàn, trở nên mới mẻ và tràn đầy sức sống. Có thể thấy rằng các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.
* Trước tháng 8 năm 1945
Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu Lửa thiêng năm 1940 (gồm những bài đã đăng báo trước 1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Bao trùm Lửa Thiêng là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ “ảo não”, bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lý) và Vũ trụ ca (thơ đăng báo 1940-1942), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa thoát khỏi bế tắc.
* Sau Tháng 8 năm 1945
Các tác phẩm của Huy Cận sau Cách mạng tháng 8:
– Trời mỗi ngày lại sáng (tập thơ, 1958),
– Đất nở hoa (tập thơ, 1960),
– Bài thơ cuộc đời (tập thơ, 1963),
– Hai bàn tay em (tập thơ thiếu nhi, 1967),
– Phù Đổng Thiên Vương (tập thơ, 1968),
– Những năm sáu mươi (tập thơ, 1968),
– Cô gái Mèo (truyện thơ, 1972),
– Chiến trường gần đến chiến trường xa (tập thơ, 1973),
– Họp mặt thiếu niên anh hùng (tập thơ thiếu nhi, 1973),
– Những người mẹ, những người vợ (tập thơ, 1974),
– Ngày hằng sống ngày hằng thơ (tập thơ, 1975),
– Sơn Tinh,Thủy Tinh (tập thơ, 1976),
– Ngôi nhà giữa nắng (tập thơ, 1978),
– Suy nghĩ về nghệ thuật (tiểu luận phê bình, 1980 – 1982),
– Hạt lại gieo (tập thơ, 1984),
– Tuyển tập Huy Cận tập I (tuyển tập thơ, 1986),
– Chim làm ra gió (tập thơ, 1991),
– Một cuộc cách mạng trong thi ca (chủ biên cùng Hà Minh Đức, 1993),
– Tào Phùng (tập thơ, 1993),
– Thơ tình Huy Cận (tuyển tập thơ, 1994),
– Nước triều Đông (Mareés de la Mer Orientale) (tập thơ tiếng Pháp, 1994),
– Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (văn hóa, 1994),
– Các vùng văn hoá Việt Nam (chủ biên cùng Đinh Gia Khánh, 1995),
– Tuyển tập Huy Cận II (tuyển tập thơ, 1995),
– Thông điệp từ vừng sao và từ mặt đất (Messages stélaires et Terrestres) (tập thơ tiếng Pháp, 1996),
– Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (tập thơ, 1997),
– Ta về với biển (tập thơ, 1997),
– Hồi ký song đôi (tự truyện, 1997),
– Lửa hồng muối mặn (tập thơ, 2001),
– Cha ông nghìn thuở (tráng ca, 2002),…
* Sáng tác được phổ nhạc
– Ngậm ngùi được Phạm Duy phổ nhạc.
– Áo trăng, Buồn đêm mưa và Tự tình được Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc.
– “Buồn đêm mưa” được Phạm Đình Chương phổ nhạc.
– “Những thành phố bên bờ biển cả” được Phạm Đình Sáu phổ nhạc.
* Danh hiệu
Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I – năm 1996).
Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
– Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
4. Quê hương Vũ Quang với Nhà thơ Huy Cận
Tri ân những cống hiến lớn của Huy Cận đối với quê hương và dân tộc, nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước đã có những con đương mang tên Ông. Riêng tại huyện Vũ Quang có đường Huy Cận tại thị trấn Vũ Quang; có Trường THPT Cù Huy Cận; có bức Tượng bán thân nhà thơ Cù Huy Cận đặt trong khuôn viên Trường THPT Cù Huy Cận tại xã Đức Lĩnh.