Phan Đình Phùng ( 1847 – 1896), là một sĩ phu Nho giáo nổi bật nhất của phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong phong trào Cần Vương. Trong thế kỷ XX, sau khi đã qua đời, Phan Đình Phùng vẫn được những người theo chủ nghĩa dân tộc tôn vinh như một vị anh hùng dân tộc. Phan Đình Phùng nổi tiếng với những ý chí và nguyên tắc sắt đá của bản thân – không chịu đầu hàng ngay cả khi quân Pháp quật mồ mả tổ tiên, bắt giữ và dọa giết gia đình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học ở Hà Tĩnh (làng Đông Thái, huyện La Sơn, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Đông Thái nổi tiếng là quê hương và nơi sinh sống của nhiều quan lại cấp cao của triều đình từ thời nhà Lê. Mười hai đời liên tiếp dòng họ Phan đều đỗ đạt làm quan. Từ nhỏ, Phan Đình Phùng đã tỏ ra chán ghét với chương trình học bảo thủ xưa cũ, tuy vậy ông vẫn kiên trì học tập cho đến khi đỗ Cử nhân vào năm 1876. Trong bài thi của mình, Phan Đình Phùng đã lấy Nhật Bản làm ví dụ cho việc một đất nước có thể phát triển quân sự thần tốc nếu có đủ ý chí. Ông đậu Cử nhân trong khoa thi Bính Tí (1876) và trở thành Đình nguyên Tiến sĩ trong kỳ thi Đình năm 1877.
Mặc dù đỗ đạt cao nhưng Phan Đình Phùng thường được biết đến nhờ sự chính trực, liêm khiết của mình hơn là tài học. Cũng nhờ đức tính này mà ông thăng quan nhanh chóng trong triều đình Tự Đức. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được bổ làm Tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Trong thời gian ông tại chức, có một vị linh mục Công giáo La Mã là Trần Lục luôn dựa vào sự hỗ trợ ngầm của các nhà truyền giáo Pháp mà ức hiếp người dân không theo đạo ở địa phương. Nhân một lần vị linh mục này lộng quyền, Phan Đình Phùng đã đem người này ra đánh. Cũng từ đây mà một cuộc tranh cãi giữ dội đã nổ ra, ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa Triều đình, Công giáo Việt Nam và Pháp. Cuối cùng, triều đình Huế đã phải cách chức Tri huyện của Phan Đình Phùng.
Phan Đình Phùng mặc dù bị cách chức Tri huyện, nhưng nhờ sự chính trực của mình mà ông được thuyên chuyển vào kinh thành, trở thành một thành viên của Đô sát viện, được thăng lên chức Ngự sử trong triều. Với vị trí Ngự sử, ông có quyền chỉ trích các hành vi sai trái của tất cả các quan lại trong triều và kể cả Hoàng đế. Ông công khai chỉ trích Tôn Thất Thuyết – đại thần phụ chính đứng đầu triều đình thời bấy giờ – là một người hấp tấp và không trung thực. Ngoài việc tích cực diệt trừ tham nhũng, Phan Đình Phùng còn biên soạn một cuốn sách Địa lý Việt Nam và xuất bản vào năm 1883.
Mặc dù có vị trí nổi bật trong triều đình nhà Nguyễn, nhưng ít ai biết được lập trường cá nhân của ông trong quan hệ giữa Việt Nam và Pháp – nước đang trong quá trình đô hộ Việt Nam. Pháp xâm lược lần đầu tiên vào năm 1858, và bắt đầu quá trình đô hộ miền Nam Việt Nam. Năm 1862, triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất, chấp nhận nhường 3 tỉnh miền Đông cho Pháp. Đến năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam Kỳ). Trong khoảng thời gian này, nhà Nguyễn luôn muốn tìm ra phương án tốt nhất để có thể giành lại lãnh thổ. Triều đình lúc bấy giờ chia làm hai phe, một bên cho rằng nên sử dụng quân sự, trong khi bên còn lại cho rằng nên sử dụng biện pháp ngoại giao bên cạnh việc nhượng bộ về tài chính và tôn giáo. Đến khi Hoàng đế Tự Đức qua đời vào năm 1883, toàn bộ Việt Nam bị đô hộ, hợp nhất với Lào và Campuchia thành Đông Dương thuộc Pháp.
Trước khi qua đời mà không có con trai, Tự Đức đã chọn Kiến Phúc làm người thừa kế thay cho Dục Đức – người vốn được định vị trí Trữ quân. Trong di chúc của mình, Tự Đức đã viết rằng: Dục Đức làm người sa đọa, không xứng đáng để cai trị đất nước. Tuy nhiên, dưới sự dẫn dắt của Tôn Thất Thuyết, các quan phụ chính đã đưa Dục Đức lên ngôi dưới sức ép của hậu phi trong hậu cung. Phan Đình Phùng kịch liệt phản đối hành động này của Tôn Thất Thuyết nên ông đã bị cách chức. Nhưng Dục Đức làm Hoàng đế chưa được 3 ngày đã bị phế truất và xử tử vì lý do không để tang Tự Đức và có hành vi thông dâm với cung nữ của vua cha. Phan Đình Phùng lại một lần nữa lên tiếng phản đối và đã bị bắt giam rồi sau đó đuổi về quê nhà. Năm 1884, Phan Đình Phùng được phục chức rồi được bổ làm Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh.
Năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi lên làm người đứng đầu trên danh nghĩa của Phong trào Cần Vương, tìm cách lật đổ sự cai trị của Pháp bằng một cuộc nổi dậy. Phan Đình Phùng đã tích cực hưởng ứng bằng cách lập căn cứ ở Hà Tĩnh, thành lập đội quân du kích cho riêng mình. Trong thời gian này, Tôn Thất Thuyết muốn tranh thủ sự hỗ trợ từ nhà Thanh của Trung Quốc nhưng Nguyễn Văn Tường lại cho rằng trợ lực lớn nhất của Việt Nam bấy giờ là Xiêm. Bởi Hoàng đế mở đầu nhà Nguyễn là Gia Long đã gả em gái của mình cho vua Xiêm, đồng thời Xiêm cũng là căn cứ của ông trong thời gian ông tìm cách giành lại ngai vàng vào những năm 1780. Tuy nhiên, nhiều lần kêu gọi sự giúp đỡ từ chính phủ Xiêm chỉ đổi lại một ít vũ khí và đạn dược. Để chuẩn bị cho khởi nghĩa, Tôn Thất Thuyết đã chuẩn bị và xây dựng căn cứ ở Tân Sở suốt một năm.
Cuộc khởi nghĩa Cần Vương đã chính thức bắt đầu vào ngày 5 tháng 7 năm 1885 khi Tôn Thất Thuyết mở cuộc tấn công vào quân Pháp sau một thời gian đối đầu ngoại giao. Sau khi cuộc tấn công thất bại, Tôn Thất Thuyết đã phải đưa Hàm Nghi chạy về phía bắc, đến gần biên giới với Lào. Cuộc khởi nghĩa được chính thức phát động khi Hoàng đế ban bố Chiếu Cần Vương đã được các nhiếp chính soạn sẵn.
Phan Đình Phùng hưởng ứng Chiếu Cần Vương, được Hàm Nghi phong làm Tán lý Quân vụ, lãnh đạo các nghĩa quân. Ông tập hợp sự ủng hộ từ các làng quê, lập đại bản doanh trên núi Vũ Quang, một nơi có thể nhìn ra pháo đài ven biển của Pháp. Tổ chức của ông cũng trở thành hình mẫu cho các nghĩa quân sau này. Ông chia nghĩa quân thành 15 thứ, mỗi thứ có từ 100 đến 500 quân. Nghĩa quân của ông được giữ kỷ luật và mặc quân phục như quân đội chính quy.
Vũ khí của nghĩa quân, ngoài những thứ thông thường, họ còn có khoảng 500 trăm khẩu súng tự chế (kiểu súng Pháp năm 1874) và rất nhiều súng hỏa mai.
Phần lương thực và của cải chủ yếu là nhờ nhân dân đóng góp.
Tại đây, nhân dân đã hết sức, hết lòng ủng hộ nghĩa quân cả về sức người và sức của. Vào thời điểm đó, nhân dân trong vùng vẫn truyền nhau câu ca:
“Rủ nhau đem của cải ra
Gửi lên sơn trại gọi là nuôi quân”.
Đứng ra giúp sức cho Phan Đình Phùng là các sĩ đại phu có tiếng như Phan Trọng Mưu, Cử Phan Cát Su, Phan Quang Cư và các võ tướng xuất thân từ nông dân như Cao Thắng, Cao Nữu, Lê Ninh, Nguyễn Chanh. Trận chiến đầu tiên gây sự chú ý của nghĩa quân là cuộc tấn công vào hai ngôi làng Công giáo gần đó đã hợp tác với Pháp. Chỉ một vài giờ sau khi cuộc tấn công bắt đầu, quân Pháp xuất hiện và nhanh chóng đàn áp được nghĩa quân, buộc nghĩa quân phải chạy về căn cứ. Quân Pháp thừa thắng truy đuổi đến và đốt phá toàn bộ đồn Đồng Thái, khiến nơi này chịu thiệt hại nặng nề. Phan Đình Phùng chạy thoát, nhưng anh trai là Phan Đình Thông lại bị Nguyễn Chính bắt được. Nguyễn Chính vốn là Kinh lược Bắc Kỳ, nhưng vì tội ngang ngược hoành hành, không lo cho dân mà bị Phan Đình Phùng lúc ấy còn là Ngự sử dâng sớ vạch tội, cũng vì vậy mà bị Tự Đức cách chức. Nay Nguyễn Chính hợp tác với Pháp, được giữ chức Tổng đốc Nghệ An.
Nguyễn Chính và quân Pháp muốn dùng việc Phan Đình Thông bị bắt để ép Phan Đình Phùng đầu hàng. Họ lợi dụng các cộng sự, người cùng làng như Lê Kinh Hạp, Phan Trọng Mưu, Võ Khoa, Hoàng Cao Khải viết thư lấy “tình xưa nghĩa cũ” khuyên Phan Đình Phùng đầu hàng để cứu anh trai, tránh cho làng quê và mồ mả tổ tiên bị giày xéo. Nhưng Phan Đình Phùng vẫn quyết từ chối, ông nói:
Tôi từ khi cùng chư Tướng khởi binh Cần Vương, đã có chủ tâm là bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài, không nghĩ gì đến nữa. Nay tôi chỉ việc có một ngôi mộ rất to, nên giữ, là đất nước Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong, là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình, thì anh em trong nước ai cứu? Tôi bây giờ thề chỉ có một cái chết mà thôi.
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm bốn tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại suốt 10 năm liên tục.
Ở bốn tỉnh này, Phan Đình Phùng đã chia địa bàn thành 15 quân thứ, đồng thời dựa vào địa thế rừng núi hiểm yếu, ông cho xây dựng lực lượng và cơ sở chiến đấu chính nằm ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê (Hà Tĩnh). Theo sử liệu thì Phan Đình Phùng đã cho xây dựng bốn căn cứ lớn, đó là:
Căn cứ Cồn Chùa ở xã Sơn Lâm (Hương Sơn, Hà Tĩnh), án ngữ đường sang Nghệ An. Đây là nơi dự trữ lương thực và rèn đúc vũ khí.
Căn cứ Thượng Bồng – Hạ Bồng ở tây nam Đức Thọ (Hà Tĩnh) dựa vào địa thế của sông Ngàn Sâu và Ngàn Trươi. Ngoài ra, Phan Đình Phùng còn cho lập nơi đây hệ thống hào lũy, đồn trại, kho lương, bãi tập,…Đây là một căn cứ lớn trong buổi đầu kháng chiến của nghĩa quân Hương Khê.
Căn cứ Trùng Khê -Trí Khê nằm ở hai xã Hương Ninh – Hương Thọ thuộc huyện Hương Khê. Đây là căn cứ dự bị, có đường sang Lào, phòng khi bị quân Pháp bao vây.
Căn cứ Vụ Quang ở phía tây Hương Khê. Nơi đây có địa hình hiểm trở, tựa lưng vào dãy Trường Sơn. Từ đây, nghĩa quân có thể theo đường núi vào Quảng Bình, Quảng Trị, ra Nghệ An, Thanh Hóa hay theo đường sông đi xuống các vùng đồng bằng hoặc khi cần thiết có thể lánh sang Lào.
Quân đội của Phan Đình Phùng được đào tạo kỷ luật và bài bản, mà người đứng đằng sau chính là Cao Thắng – thủ lĩnh “Giặc cờ Vàng” và được anh trai Phan Đình Phùng cứu khỏi quân đội triều đình hơn một thập kỷ trước. Nghĩa quân chủ yếu hoạt động ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình nhưng mạnh mẽ nhất là hai tỉnh Nghệ – Tĩnh. Năm 1887, sau nhiều trận thất bại, Phan Đình Phùng nhận ra sai lầm trong chiến thuật của mình, ông ra lệnh cho các tướng sĩ chuyển sang cách đánh du kích. Ông lệnh cho người xây dựng các khu căn cứ, kho lương thực, xây dựng hệ thống tình báo và các đầu mối tiếp tế cho nông dân; còn bản thân ông quyết định ra Bắc để kêu gọi văn thân chí sĩ cùng nổi dậy. Trong thời gian ông ra Bắc, Cao Thắng tiếp tục lãnh đạo một lực lượng khoảng 1000 người với 500 khẩu súng ống. Lực lượng của Cao Thắng đã sản xuất được khoảng 300 khẩu súng trường bằng cách tháo rời và học theo những khẩu súng đã thu được của quân Pháp từ năm 1874. Để có thể tạo ra được những khẩu súng nhái như vậy, họ đã cho bắt rất nhiều công tượng người Việt.
“Súng ta, chế được vừa xong
Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay
Bắn cho tiệt giống quân Tây
Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe.”
Về sau, người Pháp đã nhận định rằng những vũ khí này đã được sao chép thành thạo, chỉ có một chi tiết bị lỗi là quá trình tôi luyện lò xo. Lò xo được chế tạo thiếu các nan ô, và thiếu độ gợn sóng, làm hạn chế phạm vi và độ chính xác.
Tuy nhiên, vũ khí mà nghĩa quân sử dụng kém xa so với đối thủ, tất cả các vị trí của họ trong đất liền đều nằm trong tầm bắn của Hải quân Pháp. Lúc bấy giờ, người Việt Nam không thể dựa vào Trung Quốc để hỗ trợ vật chất, còn các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan hay Vương quốc Anh thì không muốn bán vũ khí cho họ vì nhiều lý do khác nhau. Vì vậy, Phan Đình Phùng phải tìm những con đường trên bộ để có thể mua vũ khí từ Xiêm, trong bối cảnh sử dụng đường biển không khả thi với sự có mặt của Hải quân Pháp. Ông lệnh cho các tướng sĩ dưới quyền lập một con đường bí mật từ Hà Tĩnh qua Lào vào đông bắc Xiêm mua vũ khí.
Năm 1888, một cận vệ người Mường của Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc đã phản bội ông, dẫn đến việc vị hoàng đế này bị quân Pháp bắt và đày sang Algeria. Phan Đình Phùng và Cao Thắng đã chiến đấu ở miền núi Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa. 15 cứ điểm khác được xây dựng dọc theo núi để bổ sung cho sở chỉ huy ở núi Vụ Quang. Mỗi căn cứ có một chỉ huy cấp dưới chỉ huy các đơn vị có quân số từ 100 đến 500 người (1 thứ quân). Mọi hoạt động của nghĩa quân đều được người dân địa phương, họ quyên góp kim loại để sản xuất vũ khí.
Sau khi từ miền Bắc trở về vào năm 1889, việc đầu tiên Phan Đình Phùng làm là phát lệnh truy tìm kẻ phản bội Trương Quang Ngọc. Khi tìm được, ông đã đích thân xử tử Ngọc tại Tuyên Hóa. Sau đó, ông mở hàng loạt cuộc tấn công du kích vào các cơ sở của quân Pháp trong suốt mùa hè năm 1890, nhưng những cuộc tấn công này lại tỏ ra thiếu quyết đoán.
Năm 1893 Cao Thắng tử trận khiến Phan Đình Phùng bị mất đi một cộng sự đắc lực. Năm 1895 Pháp điều Nguyễn Thân đến phối hợp với công sứ Nghệ An là Duvillier đem 3.000 lính đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Quân chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít đường tiếp vận, nên vũ khí, lương thực, quân số đều thiếu thốn, khó bù đắp. Mỗi lần đối phương tấn công, nghĩa quân chỉ có thể chạy quanh từ núi Quạt rồi trở về núi Vụ Quang, và không thể ở đây lâu quá 3 ngày.
Ngày 17 tháng 10 năm 1894, Phan Đình Phùng đã tập hợp lực lượng, đánh thắng một trận lớn, đối phương mất nhiều vũ khí và bị giết chết rất nhiều. Ban đầu, ông cho quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước lại, đồng thời chuẩn bị sẵn nhiều khúc gỗ lớn. Khi quân Pháp và quân triều thân Pháp đến giữa dòng sông, thì ông cho phá kè trên nguồn và tuôn cây xuống. Đối phương phần bị nước cuốn, phần bị cây lao vào người, lại bị nghĩa quân ở hai bên bờ xông ra đánh nên bị thương vong rất nhiều. Nghĩa quân Phan Đình Phùng gành được thắng lợi rất giòn giã, tiêu diệt 3 sí quan Pháp, trên 100 lính ngụy, thu 50 súng và rất nhiều quân trang, quân dụng.
Sau khi thắng trận, Phan Đình Phùng cảm tác bài thơ:
“ Non rất cao mà nước rất xanh
Nước non linh hiển giúp cho mình.
Nếu không, bên ít bên nhiều thế
Sao đến đầu khen đã hoảng kinh?”
Chiến thắng Vụ Quang thể hiện nghệ thuật quân sự của Phan Đình Phùng, tài trí và sự dũng cảm của nghĩa quân Cần Vương. Có thể nói, trận “sa nang úng thủy” của nghĩa quân Phan Đình Phùng là trận đánh có một không hai trong lịch sử quân sự Việt Nam đã giành được chiến thắng vang dội như thế. Chiến thắng này đã gây tiếng vang lớn khắp cả nước. Tuy nhiên, nghĩa quân vẫn không thay đổi được cục diện có lợi cho mình, vì so sánh lực lượng lúc này đã nghiêng hẳn về phía đội quân xâm lược.
Tháng 8-1895, triều đình Huế cử tên tay sai Nguyễn Thân làm khâm sai tiết chế, đêm 3000 quân ra Hà Tĩnh phối hợp với lực lượng của Pháp tại đây để đàn áp phong trào. Lúc này, tại Hà Tĩnh, các đội quân ở vùng đồng bằng cũng bị đàn áp buộc phải chạy lên vùng núi Vụ Quang. Địch càng có điều kiện tập trung lực lượng để đánh trận quyết định nhằm tiêu diệt nghĩa quân Phan Đình Phùng. Quân địch được bố trí thay phiên đóng chốt nhiều nơi, chặn các ngã đường vào Vụ Quang- Hà Tĩnh. Vì vậy, việc tiếp tế lương thực, thực phẩm cho nghĩa quân gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù, các đơn vị nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, gây cho địch nhiều khó khăn, nhưng do những điều kiện hoàn toàn bất lợi nên không có thời gian củng cố lực lượng. Lương thực, vũ khí cũng không còn đầy đủ như trước. Lực lượng của nghĩa quân suy yếu dần.
Ngày 28-12-1895, trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng và hy sinh. Mười ngày sau, giặc Pháp và tay sai mới biết tin, Nguyễn Thân đã hèn hạ cho đào xác Phan Đình Phùng đem về làng bắt tổng lý và người thân ra nhận mặt. Sau đó, hắn cho đốt xác rồi nhồi vào thuốc súng bắn xuống sông La. Tội ác man rợ của tên đại Việt gian Nguyễn Thân bị hậu thế đời đời nguyền rủa.
Sang đầu năm 1896, một số chỉ huy lần lượt mất vì ở lâu nơi rừng sâu nước độc, một số bị tử trận hoặc bị bắt, một số khác thì rút qua Xiêm La hoặc ra hàng… Cuộc khởi nghĩa Hương Khê mà Phan Đình Phùng cùng các cộng sự đã dày công xây dựng đến đây là kết thúc.
Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao nhất của phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX, kéo dài suốt 10 năm, có quy mô rộng lớn, có tổ chức tương đối chặt chẽ, lập được nhiều chiến công và gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề. Cuộc khởi nghĩa đã huy động đến mức cao độ sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của nhân dân (người Kinh và người Thượng, của cả đồng bằng và miền núi). Về quân sự, nghĩa quân đã biết sử dụng những phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động, sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như khi giao chiến với đối phương. Khởi nghĩa Hương Khê thất bại do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do nghĩa quân chưa biết liên kết, tập hợp lực lượng, phát triển thành phong trào toàn quốc. Đó cũng chính là những hạn chế của thời đại, của bộ phận lãnh đạo phong trào Cần vương nói chung.
Mặc dù không đi đến thắng lợi cuối cùng nhưng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và nghĩa quân là một bản anh hùng ca bất hủ về tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc ta, đồng thời khẳng định một tấm lòng trung nghĩa vì dân, vì nước của một con người tài đức vẹn toàn – Phan Đình Phùng. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã để lại nhiều bài học và kinh nghiệm sâu sắc có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc sau này, đó là bài học về việc huy động được sức mạnh, sự ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt các giai tầng, thành phần dân tộc; tổ chức lực lượng chặt chẽ, nghiêm minh; sự đoàn kết thống nhất, tinh thần tự lực, tự cường. Phong trào tuy thất bại nhưng đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm của cuộc khởi nghĩa mãi mãi được ghi vào sử sách, là niềm tự hào của các thế hệ người dân Việt Nam nói chung và người dânVũ Quang nói riêng.